Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê vừa công bố, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 1/2024 ước tính tăng 5.66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý 1 các năm 2020-2023.
Cụ thể, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2.98%, đóng góp 6.09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6.28%, đóng góp 41.68%; khu vực dịch vụ tăng 6.12%, đóng góp 52.23%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu, nuôi trồng thủy sản tăng trưởng tích cực. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2024 tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0.26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4.08% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0.02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3.46%, đóng góp 0.08 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp khởi sắc và tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý 1/2024 tăng 6.18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0.73%), đóng góp 2.02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6.98%, đóng góp 1.73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11.97%, đóng góp 0.45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4.99%, đóng góp 0.03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5.84% (sản lượng khai thác than giảm 0.3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3.2%), làm giảm 0.2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 6.83%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 1.87% của quý 1/2023, đóng góp 0.4 điểm phần trăm.
Trong khu vực dịch vụ, các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, du lịch phục hồi mạnh mẽ nhờ hiệu quả của chính sách thị thực thuận lợi và chương trình kích cầu du lịch, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chủ lực tăng cao. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế quý 1 năm nay như sau: Ngành vận tải kho bãi tăng 10.58% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0.68 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8.34%, đóng góp 0.24 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 6.94%, đóng góp 0.76 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5.2%, đóng góp 0.32 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 4.14%, đóng góp 0.28 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý 1/2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11.77%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35.73%; khu vực dịch vụ chiếm 43.48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9.02%.
Về sử dụng GDP quý 1/2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 4.93% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 56.77% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 4.69%, đóng góp 24.07%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17.08%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 19.16%.
Trong khi đó, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước; tăng 1,12% so với tháng 12/2023; và tăng 3,97% so với cùng kỳ năm trước.
Số liệu của Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, trong mức giảm 0,23% của CPI tháng 3/2024 so với tháng trước, có 07 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm và 04 nhóm hàng có chỉ số giá tăng.
Như vậy tính chung CPI quý I tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Giáo dục tăng 9,02%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,51%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,20%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,40%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,53%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; giao thông tăng 2,27%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,54%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,21%. Riêng bưu chính viễn thông giảm 1,46%.
CPI quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ ngon trong dịp Lễ ông Công, ông Táo và Tết Nguyên đán tăng cao làm cho chỉ số giá gạo quý I/2024 tăng 21,71% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 0,55 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm nước sinh hoạt tăng 10,58% do nhu cầu sử dụng nước tăng, đồng thời một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng giá nước, tác động làm CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm điện sinh hoạt tăng 9,38% do nhu cầu sử dụng điện tăng cùng với từ ngày 04/5/2023 và ngày 09/11/2023, EVN điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, góp phần làm CPI chung tăng 0,31 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm giáo dục quý I tăng 9,02% so với cùng kỳ năm trước, do trong năm học 2023-2024 một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng mức học phí, làm CPI chung tăng 0,56 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,51%, làm CPI chung tăng 0,35 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023.
Chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,4% do giá xi măng, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và giá nhà thuê tăng, làm CPI chung tăng 1,02 điểm phần trăm.
Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,35%, góp phần làm CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, một yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI quý I. Cụ thể, chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông quý I giảm 1,46% so với cùng kỳ năm trước do giá điện thoại thế hệ cũ giảm khi các doanh nghiệp áp dụng chương trình giảm giá, kích cầu đối với các dòng điện thoại thông minh đã được tung ra thị trường một thời gian.
Lạm phát cơ bản tháng 3/2024 tăng 0,03% so với tháng trước và tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý I/2024, lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,77%) chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu, giá dịch vụ y tế và giá dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.