Chủ nghĩa khắc kỷ là gì? Vận dụng để sống tốt hơn

Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn

I. Chủ nghĩa khắc kỷ là gì?

Triết học Hy Lạp cổ đại kéo dài từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên cho đến đầu của Đế chế La Mã, vào thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên Trong thời kỳ này, năm truyền thống triết học lớn đã bắt nguồn: Plato, Aristoteles, Stoic, Epicurean, và Skeptic.

1. Chủ nghĩa khắc kỷ

Chủ nghĩa khắc kỷ (hay chủ nghĩa stoic/stoa, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός, tiếng Latinh: Stoicismus) là một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại do Zeno thành Citium sáng lập ra tại Athens vào đầu thế kỷ thứ 3 Trước Công Nguyên. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về đạo đức con người, thứ được tạo ra bằng logic và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới.

Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc, đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị.

Quan điểm của chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng, sở dĩ ta đau khổ là vì ta đã chọn sai cách trong việc nhận định các vấn đề. “Khắc kỷ” không có nghĩa là nghiêm ngặt hay khổ hạnh. Trái lại, chủ nghĩa này cho rằng để tiến tới hạnh phúc, chúng ta cần sống hòa hợp với bản chất con người và thế giới.

Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng “đức hạnh là điều tốt đẹp duy nhất” đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (adiaphora), nhưng chúng có giá trị là “điều quan trọng để đức hạnh hành động”. Bên cạnh đạo đức Aristoteles, những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên luân lý luận đức hạnh của phương Tây. Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí (gọi là prohairesis) sao cho “hòa hợp với tự nhiên”. Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời họ nói, mà thông qua cách họ cư xử. Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.

Nhiều con người khắc kỷ, như Seneca và Epictetus, nhấn mạnh rằng, bởi “có đức hạnh là đã đủ hạnh phúc”, nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước những bất hạnh. Niềm tin này có ý nghĩa tương tự với cụm từ “bình tĩnh khắc kỷ”, dù vậy thì cụm từ này không bao hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thực sự được tự do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.

Từ khi hình thành, các học thuyết khắc kỷ đã dần trở nên rất phổ biến trong xã hội Hy Lạp và La Mã cho đến thế kỷ thứ 3 Công Nguyên, một trong số những người nổi tiếng nhất theo trường phái này vào lúc đó là hoàng đế Marcus Aurelius. Chủ nghĩa khắc kỷ với vị thế là trường phái triết học riêng biệt dần suy giảm sau khi Kitô giáo trở thành quốc giáo vào thế kỷ 4 CN.

Mặt khác, một số ý niệm của chủ nghĩa khắc kỷ lại được tích hợp vào Kitô giáo từ thuở sơ khởi. Sau này triết học khắc kỷ cũng có một số giai đoạn phát triển trở lại, đáng chú ý nhất là trong thời kỳ Phục hưng (chủ nghĩa tân khắc kỷ) và trong thời đại ngày nay (chủ nghĩa khắc kỷ hiện đại).

2. Nguồn gốc tên gọi

Tên tiếng Anh của chủ nghĩa khắc kỷ là Stoicism, có nguồn gốc ban đầu là ‘Zenonism’, tức là được đặt theo tên của người sáng lập, Zeno thành Citium. Tuy nhiên, cái tên này dần dần bị quên lãng, nhiều khả năng là do những môn đồ Stoic sau này không cho rằng Zeno là một người đủ thông tuệ để được đặt tên cho cả một trường phái, và cũng nhằm hạn chế khả năng chủ nghĩa triết học này đi chệch hướng, trở thành một sự sùng bái tính cách.

Cái tên ‘Stoicism’ xuất phát từ Stoa Poikile (tiếng Hy Lạp cổ: ἡ ποικίλη στοά), hay ‘Dãy Cột Sơn’, một dãy cột lớn được trang hoàng bằng những hình vẽ tái hiện khung cảnh thần thoại và lịch sử, nằm ở phía bắc Agora, Athens, nơi Zeno và các môn đồ của ông tụ họp để bàn luận về những ý tưởng. Khi Zeno mới bắt đầu giảng dạy, ông ta không thể chi trả cho một tòa nhà giống như Học viện của Plato hay mảnh vườn Lyceum của Aristotle, vậy nên ông và những môn đệ đã tụ tập tại khu vực bóng râm của Stoa Poikile giữa khu chợ, nơi bất cứ ai cũng có thể lắng nghe và tham gia tranh luận.

3. Những nguyên lý cơ bản

Những nhà triết học khắc kỷ đã đưa ra một cái nhìn thống nhất về thế giới, bao gồm logic hình thức, vật lý học nhất nguyên và đạo đức tự nhiên. Trong số đó, họ nhấn mạnh rằng đạo đức là trọng tâm chính trong kiến thức của con người, mặc dù vậy, các triết lý về logic của họ mới là thứ được các nhà triết học sau này quan tâm nhiều hơn.

Chủ nghĩa khắc kỷ dạy cho chúng ta về sự phát triển của việc tự kiểm soát bản thân và sự cương nghị như một phẩm chất để vượt qua những cảm xúc mang tính phá hủy; chủ nghĩa này tin rằng việc rèn luyện để suy nghĩ một cách rõ ràng, mạch lạc và bất thiên vị sẽ giúp cho con người hiểu ra bản chất của vũ trụ (logos). Một khía cạnh chính của chủ nghĩa khắc kỷ cũng lưu tâm đến việc cải thiện những điều tốt đẹp về đạo đức và luân lý của mỗi cá nhân: “Đức hạnh được bao hàm trong một ý chí hòa hợp với Tự nhiên.”

Nguyên lý này cũng được áp dụng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân; “để được tự do trước những nỗi tức giận, sự đố kị và ghen tị,” và phải chấp nhận rằng kể cả những người nô lệ cũng “bình đẳng như những con người khác, bởi tất cả mọi người đều là sản phẩm của tự nhiên”.

Nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa Stoic tán thành với một quan điểm của chủ nghĩa quyết đoán; khi nói về những người thiếu đi đức hạnh Stoic, Cleanthes từng phản đối rằng kẻ độc ác “giống như một con chó bị trói vào một chiếc xe đẩy, nó buộc phải đi theo chiếc xe đẩy đến bất cứ đâu”. Người tuân theo đức hạnh Stoic, ngược lại, sẽ nắn chỉnh lại ý chí của anh ta sao cho phù hợp với thế giới và sẽ, theo lời của Epictetus, “ốm đau nhưng vẫn hạnh phúc, hiểm nguy nhưng vẫn hạnh phúc, chết đi nhưng vẫn hạnh phúc, lưu đày nhưng vẫn hạnh phúc, sống ô nhục nhưng vẫn hạnh phúc,” do đó họ luôn hướng tới việc đạt được cảnh giới ý chí cá nhân “hoàn toàn tự chủ”, và đồng thời được ở trong một vũ trụ “tổng thể độc nhất có tính quyết đoán nghiêm ngặt”. Quan điểm này sau này được miêu tả với tên gọi “Chủ nghĩa phiếm thần cổ điển” (và được nhà triết học người Hà Lan Baruch Spinoza theo đuổi).

4. Suy nghĩ chung về triết học

Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng triết học là một môn học tư duy để giúp con người trở nên thông thái, làm chủ và biết cách ứng xử trước những khó khăn của cuộc đời. Vì vậy, triết học không chỉ là một khoa học mà còn là một phong cách sống, một nghệ thuật sống của con người trong cộng đồng xã hội. Và cũng theo những con người nói trên, đối tượng của triết học là phải bao quát nhiều lĩnh vực, bởi vì sự thông thái do triết học mang lại không hạn đinh, bó hẹp ở trong một giới hạn cụ thể nào đó. Quan niệm này vốn phổ biến trong một thời gian rất dài. Và theo họ, triết học gồm 3 lĩnh vực: vật lý học, đạo đức học và logic học. Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Zeno xứ Citium đã có lời ví von như sau: “Có thể so sánh triết học với một con vật: xương và thần kinh là logic học, thịt là đạo đức học, tâm hồn là vật lý học; hay là vỏ quả trứng là logic học, lòng đỏ là đạo đức học, còn cái nằm ở giữa là vật lý học”

a. Logic học

Những nhà triết học khắc kỷ cho rằng logic học là khoa học sử dụng ngôn từ. Nhờ ngôn từ chúng ta trở thành người hùng biện, dẫn dắt, làm chủ được tư tưởng của mình trong mọi tình huống. Vì vậy, logic học được xem là khoa học công cụ.

b. Vật lý học

Chủ nghĩa khắc kỷ nhìn nhận rằng vật lý học là học thuyết bàn về giới tự nhiên, về nguồn gốc của các sự vật mà chúng ta hay gặp mỗi ngày. Karl Marx đã đánh giá rằng cơ sở cho tư tưởng vật lý học của những người này là của Heraclitus và họ dựa vào đó để phát triển.

Cũng giống như những người trước đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng dùng tư tưởng duy vật để giải thích thế giới. Họ cho rằng thế giới được cấu thành từ các yếu tố đất, nước, lửa, không khí. Họ cũng khẳng định các vật cảm tính là có thực tồn và là nền tảng của vũ trụ. Đối với họ, cái chung không phải là cái vô hình không thể cảm nhận được mà cái chung tồn tại trong cái riêng. Thêm vào đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng cho thấy suy nghĩ biện chứng khi cho rằng thế giới tồn tại trong sự vân động không ngừng của các vật thể. Có thể nói các nhà triết học này là những nhà duy vật biện chứng đầu tiên trong lịch sử tư tưởng thế giới. Marx đánh giá cao về điều này: “Nhà thông thái theo phái khắc kỷ lưu ý tới cuộc sống tuyệt đối động, quan niệm đó được rút ra từ quan điểm về tự nhiên theo hướng Heraclitus, có tính năng động và có tính sinh động”

Tuy nhiên, chủ nghĩa khắc kỷ lại không kiên trì theo tư tưởng này khi sau đó họ cho rằng mọi vật phát triển theo các trình tự do Thượng đế sắp đặt. Chính vì thế, học thuyết này có chút gì đó là của mục đích luận.

c. Đạo đức học

Chủ nghĩa khắc kỷ đã đưa ra ý kiến rằng tri thức là điều kiện cần của lý tưởng đạo đức, còn điều kiện đủ là sự tĩnh tâm và bình thản của tâm hồn. Việc sống khắc khổ hay không khắc khổ không ảnh hưởng tới họ.

5. Nhận thức luận

a. Linh hồn con người

Chủ nghĩa khắc kỷ nghiên cứu nhận thức luận theo lập trường duy cảm duy vật. Theo những nhà triết học này, linh hồn được cấu tạo từ 8 bộ phận: năm giác quan thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác và xúc giác, giọng nói, bộ phận tái tạo và bộ phận điều khiển. Linh hồn của con người như tờ giấy trắng để in dấu sự tác động của thế giới bên ngoài. Biểu tượng của sự vật là do chính nó tạo nên.

b. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Chủ nghĩa khắc kỷ đã tìm thấy mối liên hệ giữa hai đối tượng này. Zeno xứ Citium đã viết rằng: “Chúng ta có khả năng lĩnh hội về nhận thức thế giới bên ngoài bẳng cả cảm tính lẫn lý tính”

c. Suy nghĩ về khái niệm

Chủ nghĩa khắc kỷ có suy nghĩ rất hay về khái niệm. Zeno xứ Citium cho rằng “các khái niệm không phải là kết quả thỏa thuận giữa mọi người về việc đặt tên cho sự vật mà ngược lại bản thân các khái niệm được quy định bởi các vật và bản chất của các vật.”

II. Vận dụng để sống tốt hơn

1. Góc nhìn mạch lạc cho một thế giới rối ren

Chủ nghĩa khắc kỷ khái quát cuộc sống làm 3 nhóm:

  1. Những gì ta có thể kiểm soát (hành động và suy nghĩ của bản thân);
  2. Những điều ta không thể kiểm soát (những yếu tố tự nhiên và hành động của người khác);
  3. Những gì ta có thể kiểm soát một phần (những công việc có sự tham gia của người khác).

Lời khuyên của stoicism là hãy tập trung vào nhóm 1, phớt lờ nhóm 2, lên kế hoạch cho nhóm 3. Một triết lý quan trọng của chủ nghĩa khắc kỷ là đừng cố kiểm soát những gì xảy đến với bạn, vì đơn giản là bạn không thể. Thay vào đó hãy kiểm soát phản ứng của mình trước những sự việc đó.

2. Chủ động đối mặt khủng hoảng

Có rất nhiều người nổi tiếng từng áp dụng và ca ngợi lối sống khắc kỷ. Nhưng nếu phải nhắc đến một tấm gương thực hành khắc kỷ tiêu biểu thì tôi muốn kể đến cựu thị trưởng Vancouver – Sam Sullivan.

Sam liệt tứ chi sau một tai nạn trượt tuyết thảm khốc năm 19 tuổi. Vì tai nạn đó, ông đã phải vật lộn với căn bệnh trầm cảm và ý muốn tự sát trong suốt 6 năm. Mãi cho đến khi ông tìm thấy chủ nghĩa khắc kỷ và áp dụng nó.

Từ đó, ông coi những khó khăn trong đời mình là cơ hội để rèn luyện bản thân. Ông bắt đầu liên lạc với chuyên gia để rèn luyện lại cơ thể và tập những cử động đơn giản. Và ông thay đổi tâm thái, từ một nạn nhân bị động đến một người chủ động tìm kiếm thành công.

Lối sống khắc kỷ giúp chúng ta tập chủ động đối mặt với thử thách.

3. Thay đổi cái nhìn về mất mát

Triết gia khắc kỷ Epictetus bị trộm lấy mất cái đèn kim loại trước nhà. Thay vì chửi mắng tên trộm, ông nhận thấy rằng mất một cái đèn không tổn hại quá nhiều đến ông, nhưng tên trộm thì đã phải đánh đổi phẩm cách con người cho việc trộm đồ. Vậy là hôm sau ông đi mua một cái đèn đất nung rẻ hơn, bỏ qua mọi chuyện.

Phản ứng đau khổ ban đầu là không tránh khỏi, nhưng việc buồn bã hoàn toàn không có ích gì trong tình huống này. Nếu không thể vãn hồi được chuyện đó thì hãy xem đó là một bài học (mong không bao giờ lặp lại). Cách nghĩ đó đã khiến tâm trạng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều.

Tạm Kết

Hy vọng bài viết trên đã cho bạn hiểu về chủ nghĩa khắc kỷ và cách vận dụng nó để có cuộc sống tốt hơn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *